Tuyên ngôn độc lập: cao cả và sáng ngời tư tưởng nhân văn của dân tộc Việt Nam

         Kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh (2/9/1945 – 2/9/2024)                                                        

      Ngày 19-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám tại Hà Nội đã giành thắng lợi. Từ khu giải phóng Việt Bắc, chiều ngày 25-8-1945, theo sự chỉ đạo của đồng chí Lê Văn Lương, bằng một xe bí mật đi vào cổng sau, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh đã về trú đóng tại ngôi nhà của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô, số nhà 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội.

    Sự ra đời và nội dung của Tuyên ngôn độc lập

    Sáng 26-8-1945, mặc dù còn mệt do bệnh chưa khỏi hẳn nhưng  Chủ tịch Hồ Chí Minh  triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Tại cuộc họp này, ngoài việc bàn bác những vấn đề trọng yếu của quốc gia, Người cho biết sẽ chuẩn bị để biên soạn bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

    Sau đó một ngày, tại cuộc họp của Ủy ban Dân tộc giải phóng, ngày 27-8, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên tiếp trong hai ngày 28 và 29-8, Bác Hồ dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 30-8, Người đã mời một số đồng chí ở Trung ương đến trao đổi, góp ý kiến thêm cho bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập Người vừa dự thảo xong. Sau khi đọc bản thảo cho mọi người nghe và hỏi ý kiến, Người nói đại ý: Trong đời, Người đã viết nhiều văn kiện, tài liệu, nhưng đến bây giờ, mới viết một văn bản cực kỳ quan trọng là Tuyên ngôn độc lập, khai sinh cho nước nhà vừa giành độc lập.

     Tiếp đó, ngày 31-8, vẫn tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang, Bác Hồ đã bổ sung một số điểm vào bản thảo bản Tuyên ngôn độc lập; đồng thời, hỏi Ban Tổ chức về tình hình cụ thể của việc chuẩn bị ngày Lễ Độc lập sẽ diễn ra tại quảng trường Ba Đình vào chiều ngày 2-9-1945, khi nước nhà vừa giành độc lập hơn một tuần lễ (Nam Bộ đến 25-8-1945 mới hoàn thành giành chính quyền). 

     Đúng chiều ngày 2-9-1945, đoàn xe chở các thành viên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi đến quảng trường Ba Đình. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị Bộ trưởng vừa bước lên lễ đài thì cả rừng người vỗ tay hoan nghênh kéo dài. Giờ chào cờ đã đến. Đội kèn đồng của Vệ quốc quân vang lên bài Quốc ca “Tiến quân ca” hùng tráng. Tiếp đó, lá cờ đỏ sao vàng được hai chiến sĩ giải phóng quân là Đàm Thị Loan và Lê Thi đã từ từ kéo lên đỉnh cao nhất của cột cờ quảng trường Ba Đình. Lúc này, một nỗi trang nghiêm đang chờ đón những thời khắc đáng nhớ nhất của dân tộc ta qua gần 100 năm kéo dài trong cảnh nô lệ, lầm than. Sau lễ chào cờ và hát vang cả quảng trường về bài Quốc ca, tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, bước tới micrô tại lễ đài giới thiệu Hồ Chí Minh - Người được chào mừng bằng những tiếng hô vang dội “Độc lập! Độc lập!”; Hồ Chí Minh vẫy tay trước khán thính giả vài phút, đoạn Người nâng hai bàn tay lên kêu mọi người im lặng. Bằng chất giọng xứ Nghệ Tĩnh, Hồ Chí Minh bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - đó là thời khắc trọng đại.

     Và đúng sau 14 giờ tại Quảng trường (nay gọi là quảng trường Ba Đình) Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của dân tộc, đã trịnh trọng đứng trên lễ đài đọc Tuyên ngôn độc lập. Người trong bộ quần áo kaki giản dị, với giọng nói ấm áp, rõ ràng, Người đã vang lên bản Tuyên ngôn tại Quảng trường. Bản Tuyên ngôn độc lập, mở đầu Người đã nêu lên quyền dân tộc cơ bản của các dân tộc trên thế giới, khẳng định quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam, là quyền độc lập, tự do; và đó cũng là quyền con người mà nhân dân đã anh dũng đấu tranh, giành lấy từ tay phát-xít Nhật, bởi lẽ không thể có được quyền con người khi quyền độc lập dân tộc bị chà đạp; nói cách khác, dân tộc có được độc lập thì con người mới được hưởng quyền tự do một cách hữu hiệu.

     Đó là tư tưởng bất hủ của Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ giữa quyền dân tộc và quyền con người, khi Người nêu rõ: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do mưu cầu hạnh phúc. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập; Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Tư tưởng bất hủ đó là sự kết tinh hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mà hơn ai hết vị Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu rất rõ rang và hội tụ sâu sắc về điều thiêng liêng đó.

     Ý nghĩa mang tính thời đại cao cả của Tuyên ngôn độc lập

     Tuyên ngôn độc lập có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, là Bản tuyên ngôn thứ 3 của đất nước Việt Nam, nhằm khai sinh ra nước Việt Nam độc lập, tự do. Các ý nghĩa đó là:

     Một là; Tuyên ngôn độc lập là bản “Thiên cổ hùng văn” kết tinh truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất của cả dân tộc, là bản anh hùng ca mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập tự do cho các dân tộc trên thế giới, trong đó nước ta lần đầu tiên tại Đông Nam Á đã giành được quyền độc lập và quyền tự do.

    Hai là; Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.

     Ba là; Tuyên ngôn độc lập bất hủ ngay từ những khổ đầu đã lấy tư tưởng cao cả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ và Pháp, tư tưởng “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do mưu cầu hạnh phúc”. Đó là những ý tưởng cao cả của loài người tiến bộ trong cuộc đấu tranh giành lại sự sống ấm no đi tới tự do. Vận dụng những tư tưởng lớn của loài người từ hai quốc gia Mỹ và Pháp để nhận định những lý tưởng cao đẹp, sáng ngời của ý chí độc lập, tự do mà bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào cũng đều có quyền dành cho mọi người được hưởng tự do và độc lập.     

     Bốn là; Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.

      Tuyên ngôn đã chỉ ra một chính quyền cách mạng mới của nhân dân Việt Nam được xây dựng và trưởng thành theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân và cả dân tộc. Tuyên ngôn khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi và là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam đang phấn đấu, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

     Năm là; Bản Tuyên ngôn là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống anh hùng, bất khuất và ý chí kiên cường vì độc lập dân tộc của Việt Nam với sứ mệnh cao cả của giai cấp vô sản được đề cập trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (năm 1848). Tuyên ngôn đã thể hiện rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới và giai cấp vô sản Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản thế giới có sứ mệnh lịch sử cao cả và vĩ đại là giải phóng dân tộc và nhân loại.

     Sáu là; Tuyên ngôn độc lập 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo và công bố trước toàn thế giới, cho thấy tầm trí tuệ sắc sảo và lỗi lạc trong thể hiện của Người. Đây là kết quả của một quá trình tư duy khoa học độc đáo, thiên tài, mà Hồ Chí Minh đã kết tinh và là một thiên anh hùng ca sáng ngời trong sự nghiệp dựng nước, của dân tộc Việt Nam.

      Điều đó càng khẳng định rõ ràng và nhất quán rằng, một chân lý hết sức giản dị nhưng có tầm khái quát cao là tư tưởng nhân văn và tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như trí tuệ sắc sảo của Người đã và vẫn mãi mãi soi sáng con đường của dân tộc Việt Nam./.