Tầm vóc cao cả giải phóng cả dân tộc Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (CMT8) năm 1945 là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc, gắn với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Hơn 80 năm đô hộ của Thực dân Pháp, hàng loạt cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh cứu nước đã nổ ra trên khắp mọi miền của đất nước, với tinh thần “Đầu dám thay đầu, chân nối chân!”; đó là các cuộc kháng Pháp của Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương…; cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học…; các phong trào Cần Vương, Đông Du… Nhiều tướng lĩnh, lãnh tụ khởi nghĩa đã chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, hy sinh trên chiến trường hay ngã xuống trong ngục tù, máy chém. Đó là những phong trào đấu tranh, những cuộc khởi nghĩa xuất phát từ tinh thần yêu nước bất khuất, khát vọng cứu nước, cứu dân cháy bỏng của con người Việt Nam. Tiếc thay, tất cả các cuộc đấu tranh kháng Pháp đó đã không kết hợp được tinh thần yêu nước với sức mạnh của Nhân dân, do đó, mỗi phong trào đều trở thành một ốc đảo trong vòng vây sức mạnh của kẻ thù, nên thất bại là hầu như đã được báo trước.
Sau khi Đảng ta ra đời, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, CMT8 mới làm sống lại sức mạnh như “sức vỡ nước” từ Nhân dân. Chính vì sức mạnh ấy, chỉ với 5.000 đảng viên Đảng Cộng sản, đã lãnh đạo dân tộc làm nên thắng lợi, tạo ra bước ngoặt to lớn trong lịch sử dân tộc, giải phóng toàn dân tộc ta. Sức mạnh đó sẽ còn được phát huy, trở thành một động lực mạnh mẽ cho những chiến công vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ biên giới, lãnh thổ của đất nước, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
CMT8 thành công, tạo nên cuộc hồi sinh lớn của con người Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, Nhân dân ta được hoàn toàn giải phóng: Đã phá tan cái xiềng xích nô lệ thực dân, đã đập đổ cái chế độ thối nát của vua quan phong kiến, đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Từ đó dân ta làm chủ nước ta”. Từ kiếp sống nô lệ, tủi nhục, lầm than, trong cảnh “Non sông thẹn với nước nhà, Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu!”(*), CMT8 không chỉ hồi sinh số phận của Nhân dân trong lịch sử của nhà nước Việt Nam độc lập, mà còn đưa Nhân dân ta lên vị thế làm chủ thật sự của nước nhà, làm chủ vận mệnh của mình, được hưởng các quyền con người, quyền tự do, công bằng như bất kỳ một dân tộc văn minh, tiến bộ nào khác.
CMT8 thắng lợi là khởi đầu cho cuộc hồi sinh của văn hóa dân tộc. Từ 1858, để thống trị dân tộc Việt Nam, thực dân Pháp thực hiện các chính sách ngu dân, cản trở dẫn đến thủ tiêu các giá trị văn hóa truyền thống, khuyến khích truyền bá các giá trị văn hóa mất gốc, ngoại lai. Đó chính là âm mưu để chặn đường phát triển của dân tộc ta. Chúng xây nhà tù nhiều hơn trường học, thẳng tay đàn áp khốc liệt bất cứ hành vi hay người dân nào có biểu hiện yêu nước, chống áp bức, bảo vệ Nhân dân và nền văn hóa dân tộc. CMT8 thắng lợi đã khởi đầu cho công cuộc khôi phục “nền văn hiến đã lâu”, hồi sinh những “phong tục”, giá trị bản sắc, xây dựng và phát triển nền văn hóa của đất nước theo phương châm “dân tộc, khoa học, đại chúng”. Nhà nước Dân chủ nhân dân đặt ra nhiệm vụ “diệt giặc dốt”, ngang hàng “diệt giặc đói”, mở mang giáo dục, nâng cao dân trí. Nền văn học - nghệ thuật ra đời trong đấu tranh cách mạng đã không ngừng trưởng thành, kết hợp những tinh hoa từ trong nguồn mạch dân tộc với những giá trị của thời đại, vì cuộc sống của con người và mục đích nhân văn cao cả của chế độ. Hệ thống báo chí, truyền thông, văn hóa... của đất nước phát triển nhanh chóng, bắt nhịp với những tiến bộ khoa học - công nghệ của nhân loại; ngày càng “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, không ngừng giao lưu, hội nhập với các dân tộc, tỏa sáng trên trường quốc tế và đưa uy tín đất nước, con người Việt Nam như hôm nay.
Bản tuyên ngôn Độc lập sáng ngời tư tưởng nhân văn
Tại buổi mít tinh ở vườn hoa Ba Đình sáng ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam DCCH trịnh trọng tuyên bố với thế giới bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định nước Việt Nam DCCH đã ra đời. Bản Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng một chân lý vĩnh cửu và phổ biến: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Tiếp theo, Tuyên ngôn Độc lập đã tố cáo và lên án những tội ác của Thực dân Pháp. Chúng đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”, thực hiện một chính sách cực kỳ phản động trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng, không “bảo hộ” cho ta mà “bán nước ta cho Nhật. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích là Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, suy cùng lực kiệt. Sau ngày 9.3.1945, thực dân Pháp thua chạy, dã man và hèn hạ hơn nữa, “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Do vậy, trong Tuyên ngôn Độc lập còn nêu cao tinh thần khoan hồng và nhân đạo, giương cao ngọn cờ chính nghĩa và chính sách đúng đắn của Mặt trận Việt Minh như cứu người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ… Sau khi phân tích tình hình nước ta từ mùa thu năm 1940, đến khi ta nổi dậy giành chính quyền, Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”.
Tuyên ngôn Độc lập trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam DCCH ra đời; thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam trước thế giới. “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít Nhật mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”.
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo là áng văn bất hủ, mang tính thời đại và tính nhân văn cao cả, là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng và ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc. Tuyên ngôn Độc lập là sự phát triển đến đỉnh cao của tư tưởng độc lập tự do đã được thể hiện trong bản “yêu sách" gửi hội nghị Véc-xai, trong “Đường Kách mệnh”, trong “Chính cương vắn tắt”, trong “Luận cương chính trị”, và đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Tròn 76 năm, từ CMT8 và Quốc khánh 2.9, là những thắng lợi vẻ vang của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, trong đó đặc biệt là “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, song muốn giữ vững được độc lập dân tộc, mang lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thì phải đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo đường lối của Đảng, toàn bộ mục tiêu cách mạng, lý tưởng phấn đấu là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân và CNXH là con đường, điều kiện thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó. Và ngày nay, từ tinh thần yêu nước, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, dưới ngọn cờ cách mạng, Đảng ta đã xây dựng đất nước ta vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc muôn năm vững bền của Nhân dân như có ngày nay./.
Thạc sĩ PHẠM BÁ NHIỄU
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(*) Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội 2011, tập 10, tr.85.